Câu chuyện chiến tranh Iraq lại trở thành thời sự, không phải vì hai đảng tranh luận, mà lại diễn ra hoàn toàn trong nội bộ đảng Cộng Hòa. Vì một cái tên: Bush.
Câu chuyện bắt đầu khi nhà báo Megyn Kelly, đài tivi Fox, hỏi ông Jeb Bush liệu ông có quyết định tấn công Iraq hay không, với những thông tin bây giờ ông đã biết, nếu vào năm 2003 ông ngồi ở chỗ người anh ruột, cựu Tổng Thống Goerge W. Bush. Ông Jeb Bush trả lời ngay: “Tôi sẽ đánh; mà tôi cũng xin nhắc quý vị, bà Clinton cũng vậy.” Năm đó, bà Clinton là một nghị sĩ Dân Chủ đã bỏ phiếu ủng hộ Tổng Thống Bush (anh) tấn công Iraq.
Vấn đề này lôi kéo các nhà chính trị khác, đang giành nhau làm ứng cử viên tổng thống đảng Cộng Hòa năm 2016. Họ náo nức góp ý kiến, vì tất cả đều thấy Jeb Bush là đối thủ nặng ký nhất, đang dẫn đầu cuộc chạy đua bầu cử sơ bộ trong đảng. Nghị sĩ Texas, Ted Cruz, các thống đốc Chris Christie (New Jersey) và John Kasich (Ohio) đều tuyên bố ngay rằng họ không đồng ý với Jeb Bush. Sau khi biết Saddam Hussein không có vũ khí nguyên tử, họ nói, sẽ không bao giờ tấn công Iraq! Riêng nghị sĩ Florida, Marco Rubio, hai tháng trước đã nói cuộc tấn công Iraq năm 2003 là đúng, nay ông chữa lại, nói là sai.
Sau đó ít ngày, Jeb Bush phải chữa câu trả lời cũ, nói rằng ông chỉ tấn công Iraq với những tin tức cũ vào năm 2003, lúc đó tình báo Mỹ tin rằng ông Saddam Hussein ở Iraq tàng trữ vũ khí nguyên tử. Còn khi biết tin tức đó sai, như bây giờ ai cũng biết, thì ông sẽ không tấn công Iraq.
Hiện nay, tất cả đã tuyên bố sẽ vận động tranh cử tổng thống Mỹ sang năm, nhưng hai ứng cử viên nặng ký là Jeb Bush và Scott Walker chưa. Lý do là luật về đóng góp quỹ tranh cử khá rắc rối. Khi chưa chính thức tranh cử, họ có quyền gặp gỡ, thảo luận với những nhóm cổ động (gọi là PAC) cho họ, mà các nhóm này có quyền nhận tiền đóng góp vô giới hạn - Jeb Bush đã tự ấn định không muốn ai góp quá một triệu đô la. Sau khi tuyên bố tranh cử, họ sẽ bị ràng buộc hai điều: Thứ nhất, những người đóng góp cho quỹ tranh cử sẽ bị giới hạn không quá $5,400 đô la. Thứ hai, họ không được phép liên hệ với những nhóm PAC nữa; vì đối với pháp luật đó là các tổ chức độc lập.
Nghị sĩ Kentucky, Rand Paul đi xa hơn mọi đối thủ. Ông tuyên bố rằng nếu Iraq có bom nguyên tử, ông cũng không tấn công. Vì dù Saddam Hussein là một nhà độc tài đáng ghét nhưng ông ta cũng là một đối thủ của chính quyền Iran. Sau khi Hussein bị giết cả vùng Trung Ðông đã hỗn loạn cho tới bây giờ. Ða số dân Iraq theo giáo phái Shi A cùng với Iran, cho nên Hussein chết rồi thì Iran bành trướng thế lực ở cả Iraq lẫn Syria, và giờ đây lại đang chế ngự Yemen!
Ông Rand Paul nêu những ý kiến giống ông Barack Obama, nghị sĩ cấp tiểu bang ở Illinois vào năm 2002. Ông đoán rằng dù chiến thắng ở Iraq hậu quả cũng sẽ là một cuộc chiếm đóng không biết thời hạn bao lâu, không biết tổn phí bao nhiêu, và không biết hậu quả thế nào.
Tháng Chín năm 2002, có 33 chuyên gia về quốc phòng đã đăng một bài trên nhật báo New York Times viết: “Chiến tranh Iraq không lợi cho nước Mỹ.” Bài đăng có trả tiền, cho thấy tờ bào này, như đa số dân Mỹ lúc đó, không đồng quan điểm với các tác giả. Họ đã báo động rằng, “Iraq là một xã hội chia rẽ sâu đậm nên khi quân Mỹ đánh rồi sẽ phải lo chiếm đóng, giữ trật tự, an ninh trong rất nhiều năm.” Họ cũng tiên đoán chiến tranh sẽ làm vùng Trung Ðông sẽ mất cân bằng.
Ðầu năm 2003, tham mưu trưởng Lục Quân là Tướng Eric Shinseki thuyết trình trước Thượng Viện đã tiên đoán việc chiếm đóng Iraq sẽ cần nhiều trăm ngàn quân Mỹ. Phụ tá bộ trưởng Quốc Phòng lúc đó là Paul Wolfowitz đã phê phán Shinseki nặng nề, ông còn nói trước rằng “cuộc chiếm đóng Iraq sẽ không tốn tiền vì tài nguyên của nước đó sẽ đủ để trả hết.” Hiện nay chi phí chiến tranh Iraq đã lên tới 3,000 tỷ đô la.
Mười năm sau chiến tranh Iraq, bao nhiêu mâu thuẫn nằm sẵn “dưới mặt nước” ở vùng Trung Ðông đã nổi lên, hiện rõ. Mâu thuẫn Shi A và Sun Ni nổ bùng khắp nơi. Phong trào quá khích này nguội đi thì nhiều phong trào khác xuất hiện. Những nước Iraq, Syria Yemen coi như không có chính quyền. Các vương quốc Á Rập bề ngoài yên ổn nhưng bên trong dân chúng đầy bất mãn.
Ðảng Dân Chủ chỉ trích đảng Cộng Hòa đã gây ra cuộc chiến tốn kém và phức tạp khó gỡ. Ngược lại đảng Cộng Hòa chỉ trích ông Obama của đảng Dân Chủ đã rút quân khỏi Iraq quá sớm.
Người Mỹ bàn đã thảo luận về bài học Iraq trong mười năm qua. Quân đội Mỹ đủ sức mạnh để bảo vệ lãnh thổ, để đánh bại các nước thù địch, và lật đổ các chính quyền những nước nhỏ. Nhưng không thể dùng sức mạnh quân sự để “xây dựng quốc gia” cho các nước khác. Mà không riêng gì nước Mỹ. Cả khối NATO đã dùng sức mạnh quân sự lật đổ chế độ độc tài ở Lybia, lại được cả Liên Hiệp Quốc đồng ý cho phép. Nhưng sau đó, không nước nào có thể thay thế người Lybia giải quyết các tranh chấp và thù hận trong nội bộ của họ.
Ở cả Iraq và Lybia sau đó, không có một “kế hoạch hậu chiến” nào có thể dùng, vì những đạo quân tấn công và chiếm đóng không biết đủ các dữ kiện xã hội, lịch sử, tôn giáo, tâm lý của dân bản xứ. Phong trào “Quốc Gia Hồi Giáo” (IS) nổi lên thu hút những người Sun Ni cảm thấy bị người Shi A lấn áp, kể cả các cựu quân nhân Iraq đã thất nghiệp sau khi quân đội bị giải tán do lệnh của ông Paul Bremer, toàn quyền Iraq sau trận chiến thắng.
Bài học đó khiến cho bây giờ các nước NATO cũng rất dè dặt khi bàn chuyện can thiệp vào Syria. Quá trình nội chiến ở Syria đi ngược chiều với Iraq. Tại Syria, Mỹ và các nước NATO không can thiệp, để cho một cuộc nội chiến ba bốn phe kéo dài gần ba năm nay. Còn tại Iraq, Mỹ và các nước Tây Phương can thiệp châm ngòi cho cuộc nội chiến. Những mâu thuẫn gây ra các cuộc nội chiến này có lịch sử từ nhiều thế kỷ, và sẽ còn kéo dài thêm nhiều thế kỷ nữa.
Cố thủ tướng nước Anh có lần nhận xét về nước Mỹ: “Bạn có thể luôn luôn tin rằng người Mỹ bao giờ cũng biết cách hành động đúng nhất.” Nhưng ông chú thích thêm: “Sau khi họ đã thử đủ các cách hành động khác.”
Ở Trung Ðông, không biết hiện giờ người Mỹ đã thử đủ “các cách khác” để rút ra một bài học sau cùng hay chưa?
Comments
Post a Comment