Đem 7 tỷ USD đầu tư ra nước ngoài, các “ông lớn” doanh nghiệp nhà nước nhận quả đắng khi số tiền thu về được vẫn còn khá ít ỏi. Thậm chí nhiều dự án lâm cảnh thua lỗ, thiếu vốn, chậm tiến độ.
7 tỷ USD đầu tư ra nước ngoài
Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng vừa thừa lệnh Thủ tướng Chính phủ có báo cáo về tình hình quản lý, sử dụng vốn, tài sản của nhà nước tại doanh nghiệp giai đoạn 2011-2016.
Một trong những điểm đáng chú ý là tình hình đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã được “phác họa” bằng những con số cụ thể.
Theo báo cáo của các cơ quan đại diện chủ sở hữu, tính đến 31/12/2016, có 18 tập đoàn, tổng công ty 100% vốn nhà nước có dự án đầu tư ra nước ngoài. Các doanh nghiệp thực hiện đầu tư tại 110 dự án, chủ yếu tập trung trong lĩnh vực viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí, trồng cây cao su, khai thác khoáng sản,...
Tập đoàn Dầu khí có vốn đầu tư ra nước ngoài nhiều nhất. Ảnh: L.Bằng
Tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án lên tới 12,6 tỷ USD. Trong đó, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) có số vốn đăng ký lớn nhất với trên 6,6 tỷ USD, chiếm hơn một nửa vốn đầu tư ra nước ngoài của DNNN; đứng thứ hai là Tập đoàn Viễn thông quân đội Viettel với hơn 2,1 tỷ USD, chiếm 17%; thứ ba là Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam với hơn 1,4 tỷ USD.
Trong tổng số vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài là 12,6 tỷ USD thì các doanh nghiệp đã giải ngân hơn một nửa.
Cụ thể, đến hết 2016, các DNNN đã mang 7 tỷ USD đi đầu tư ở nước ngoài. Trong đó, Tập đoàn Dầu khí nhiều nhất với hơn 3,4 tỷ USD. Tập đoàn Viettel đứng thứ hai với trên 1,1 tỷ USD và Tập đoàn Cao su là 729 triệu USD.
Đáng lưu ý, với hơn 7 tỷ USD đầu tư ra nước ngoài thì hết năm 2016 mới chỉ có 4/18 DNNN có phát sinh số tiền thu hồi vốn đầu tư từ các dự án đầu tư tại nước ngoài. Số tiền thu hồi vốn là trên 1,5 tỷ USD, bằng 22% vốn đầu tư thực hiện.
Báo cáo của Chính phủ đánh giá: Hiệu quả kinh tế của hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các DNNN thời gian qua còn thấp.
Cụ thể, có tới 25,5% dự án báo lỗ năm 2016; có tới 29% dự án lỗ lũy kế tính đến hết 2016; đáng lưu ý là có gần một nửa dự án không có báo cáo về doanh thu - lợi nhuận.
Ngoài ra, theo báo cáo, lợi nhuận được chia cho phía Việt Nam “không đáng kể”. Năm 2016 chỉ được chia 145 triệu USD - tương đương 2% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài.
Đến hết 2016, có trên 7 tỷ USD đầu tư cho dự án ở nước ngoài nhưng còn hơn 5,5 tỷ USD chưa thu hồi.
“Nhiều dự án đang tiềm ẩn rủi ro về pháp lý tại nước sở tại (như bị rút ngắn thời gian triển khai dự án, tranh chấp đất đai) và rủi ro thị trường (giá đầu ra giảm mạnh), ảnh hưởng lớn đến hiệu quả dự án. Có dự án bị ngừng cấp bảo lãnh Chính phủ dẫn tới việc phải dừng dự án, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả dự án”, báo cáo của Chính phủ khái quát tình hình đầu tư ra nước ngoài.
Điểm danh dự án đầu tư kém hiệu quả
Báo cáo được Bộ trưởng Tài chính ký không nêu rõ các dự án kém hiệu quả. Nhưng các kết luận thanh tra, kiểm toán thời gian qua đã hé lộ phần nào.
Dự án trồng cao su của Campuchia của Tập đoàn Cao su có nguy cơ thiệt hại trăm tỷ
Kết luận thanh tra tại Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) và một số đơn vị thành viên được Thanh tra Chính phủ công bố mới đây cho thấy cả ngàn tỷ đồng được TKV đầu tư trong giai đoạn 2010-2015 không phát huy hiệu quả, có khả năng mất trắng. Trong đó, có nhiều khoản đầu tư ra nước ngoài.
Đơn cử, TKV đầu tư vào Công ty Southern Mining Co., Ltd số tiền khoảng 4,39 triệu USD. Thế nhưng, đến thời điểm thanh tra không có hiệu quả, có khả năng mất toàn bộ vốn đầu tư. Chưa kể, một số khoản đầu tư khác cũng không hiệu quả, có nguy cơ mất toàn bộ vốn đầu tư.
Có thể kể đến khoản góp vốn 111,45 tỷ đồng vào Công ty liên doanh Stung Treng để khai khoáng tại Campuchia; góp 184,784 tỷ đồng vào liên doanh Alumina Campuchia; góp 37,9 tỷ đồng vào Công ty TNHH Vinacomin Lào để khai thác mỏ muối; góp 69 tỷ đồng vào khai thác mỏ sắt Phu Nhuom, Lào.
Như vậy, TKV đã đầu tư khoảng 303 tỷ đồng ra nước ngoài nhưng không phát huy hiệu quả, đối mặt với nguy cơ mất vốn. Thanh tra Chính phủ đã đề nghị Bộ Công an vào cuộc.
Còn Tập đoàn Dầu khí Việt Nam - đơn vị đem nhiều tiền đi đầu tư ra nước ngoài nhất - cũng có dự án nguy cơ mất trắng vốn đầu tư.
Tháng 6/2010, tại thủ đô Caracas của Venezuela, “Dự án khai thác và nâng cấp dầu nặng lô Junin 2” của PVN được chính thức ra mắt. Tổng mức đầu tư dự kiến lên tới 12,4 tỷ USD, phân kỳ làm hai giai đoạn, ban đầu rót 8,9 tỷ USD, giai đoạn 2 rót 3,5 tỷ USD.
PVN báo cáo Chính phủ rằng mỏ dầu nằm ở khu vực có trữ lượng dầu lớn nhất thế giới, cho phép khai thác công suất 1.400 tỷ thùng. Theo tỷ lệ vốn góp 40%, PVN có thể thu về 4 triệu tấn dầu/năm, dự kiến hoàn vốn sau 7 năm.
Tuy nhiên, kết quả không được như ý. Dù đã bỏ ra lên đến hơn 500 triệu USD nhưng tháng 4/2013, ban lãnh đạo mới của PVN đã quyết định bỏ dự án này dù chưa thu được giọt dầu nào.
Còn tại Tập đoàn Cao su Việt Nam, năm 2006 tập đoàn cho phép các đơn vị thành viên thành lập công ty đầu tư sang Campuchia. Đến năm 2012, có 16 đơn vị thành viên thực hiện đầu tư 20 dự án trồng cao su tại Campuchia với tổng mức đầu tư rất lớn.
Từ 2006-2010, đơn vị này trồng hơn 5.000 ha cao su nhưng có đến hơn 4.000 ha (chiếm gần 90%) phải thanh lý do cây bị chết hoặc không thể phát triển được dẫn đến số thiệt hại có thể lên tới hàng trăm tỷ.
7 tỷ USD đầu tư ra nước ngoài
Bộ trưởng Tài chính Đinh Tiến Dũng vừa thừa lệnh Thủ tướng Chính phủ có báo cáo về tình hình quản lý, sử dụng vốn, tài sản của nhà nước tại doanh nghiệp giai đoạn 2011-2016.
Một trong những điểm đáng chú ý là tình hình đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã được “phác họa” bằng những con số cụ thể.
Theo báo cáo của các cơ quan đại diện chủ sở hữu, tính đến 31/12/2016, có 18 tập đoàn, tổng công ty 100% vốn nhà nước có dự án đầu tư ra nước ngoài. Các doanh nghiệp thực hiện đầu tư tại 110 dự án, chủ yếu tập trung trong lĩnh vực viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí, trồng cây cao su, khai thác khoáng sản,...
Tập đoàn Dầu khí có vốn đầu tư ra nước ngoài nhiều nhất. Ảnh: L.Bằng
Tổng vốn đầu tư đăng ký của các dự án lên tới 12,6 tỷ USD. Trong đó, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) có số vốn đăng ký lớn nhất với trên 6,6 tỷ USD, chiếm hơn một nửa vốn đầu tư ra nước ngoài của DNNN; đứng thứ hai là Tập đoàn Viễn thông quân đội Viettel với hơn 2,1 tỷ USD, chiếm 17%; thứ ba là Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam với hơn 1,4 tỷ USD.
Trong tổng số vốn đăng ký đầu tư ra nước ngoài là 12,6 tỷ USD thì các doanh nghiệp đã giải ngân hơn một nửa.
Cụ thể, đến hết 2016, các DNNN đã mang 7 tỷ USD đi đầu tư ở nước ngoài. Trong đó, Tập đoàn Dầu khí nhiều nhất với hơn 3,4 tỷ USD. Tập đoàn Viettel đứng thứ hai với trên 1,1 tỷ USD và Tập đoàn Cao su là 729 triệu USD.
Đáng lưu ý, với hơn 7 tỷ USD đầu tư ra nước ngoài thì hết năm 2016 mới chỉ có 4/18 DNNN có phát sinh số tiền thu hồi vốn đầu tư từ các dự án đầu tư tại nước ngoài. Số tiền thu hồi vốn là trên 1,5 tỷ USD, bằng 22% vốn đầu tư thực hiện.
Báo cáo của Chính phủ đánh giá: Hiệu quả kinh tế của hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các DNNN thời gian qua còn thấp.
Cụ thể, có tới 25,5% dự án báo lỗ năm 2016; có tới 29% dự án lỗ lũy kế tính đến hết 2016; đáng lưu ý là có gần một nửa dự án không có báo cáo về doanh thu - lợi nhuận.
Ngoài ra, theo báo cáo, lợi nhuận được chia cho phía Việt Nam “không đáng kể”. Năm 2016 chỉ được chia 145 triệu USD - tương đương 2% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài.
Đến hết 2016, có trên 7 tỷ USD đầu tư cho dự án ở nước ngoài nhưng còn hơn 5,5 tỷ USD chưa thu hồi.
“Nhiều dự án đang tiềm ẩn rủi ro về pháp lý tại nước sở tại (như bị rút ngắn thời gian triển khai dự án, tranh chấp đất đai) và rủi ro thị trường (giá đầu ra giảm mạnh), ảnh hưởng lớn đến hiệu quả dự án. Có dự án bị ngừng cấp bảo lãnh Chính phủ dẫn tới việc phải dừng dự án, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả dự án”, báo cáo của Chính phủ khái quát tình hình đầu tư ra nước ngoài.
Điểm danh dự án đầu tư kém hiệu quả
Báo cáo được Bộ trưởng Tài chính ký không nêu rõ các dự án kém hiệu quả. Nhưng các kết luận thanh tra, kiểm toán thời gian qua đã hé lộ phần nào.
Dự án trồng cao su của Campuchia của Tập đoàn Cao su có nguy cơ thiệt hại trăm tỷ
Kết luận thanh tra tại Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) và một số đơn vị thành viên được Thanh tra Chính phủ công bố mới đây cho thấy cả ngàn tỷ đồng được TKV đầu tư trong giai đoạn 2010-2015 không phát huy hiệu quả, có khả năng mất trắng. Trong đó, có nhiều khoản đầu tư ra nước ngoài.
Đơn cử, TKV đầu tư vào Công ty Southern Mining Co., Ltd số tiền khoảng 4,39 triệu USD. Thế nhưng, đến thời điểm thanh tra không có hiệu quả, có khả năng mất toàn bộ vốn đầu tư. Chưa kể, một số khoản đầu tư khác cũng không hiệu quả, có nguy cơ mất toàn bộ vốn đầu tư.
Có thể kể đến khoản góp vốn 111,45 tỷ đồng vào Công ty liên doanh Stung Treng để khai khoáng tại Campuchia; góp 184,784 tỷ đồng vào liên doanh Alumina Campuchia; góp 37,9 tỷ đồng vào Công ty TNHH Vinacomin Lào để khai thác mỏ muối; góp 69 tỷ đồng vào khai thác mỏ sắt Phu Nhuom, Lào.
Như vậy, TKV đã đầu tư khoảng 303 tỷ đồng ra nước ngoài nhưng không phát huy hiệu quả, đối mặt với nguy cơ mất vốn. Thanh tra Chính phủ đã đề nghị Bộ Công an vào cuộc.
Còn Tập đoàn Dầu khí Việt Nam - đơn vị đem nhiều tiền đi đầu tư ra nước ngoài nhất - cũng có dự án nguy cơ mất trắng vốn đầu tư.
Tháng 6/2010, tại thủ đô Caracas của Venezuela, “Dự án khai thác và nâng cấp dầu nặng lô Junin 2” của PVN được chính thức ra mắt. Tổng mức đầu tư dự kiến lên tới 12,4 tỷ USD, phân kỳ làm hai giai đoạn, ban đầu rót 8,9 tỷ USD, giai đoạn 2 rót 3,5 tỷ USD.
PVN báo cáo Chính phủ rằng mỏ dầu nằm ở khu vực có trữ lượng dầu lớn nhất thế giới, cho phép khai thác công suất 1.400 tỷ thùng. Theo tỷ lệ vốn góp 40%, PVN có thể thu về 4 triệu tấn dầu/năm, dự kiến hoàn vốn sau 7 năm.
Tuy nhiên, kết quả không được như ý. Dù đã bỏ ra lên đến hơn 500 triệu USD nhưng tháng 4/2013, ban lãnh đạo mới của PVN đã quyết định bỏ dự án này dù chưa thu được giọt dầu nào.
Còn tại Tập đoàn Cao su Việt Nam, năm 2006 tập đoàn cho phép các đơn vị thành viên thành lập công ty đầu tư sang Campuchia. Đến năm 2012, có 16 đơn vị thành viên thực hiện đầu tư 20 dự án trồng cao su tại Campuchia với tổng mức đầu tư rất lớn.
Từ 2006-2010, đơn vị này trồng hơn 5.000 ha cao su nhưng có đến hơn 4.000 ha (chiếm gần 90%) phải thanh lý do cây bị chết hoặc không thể phát triển được dẫn đến số thiệt hại có thể lên tới hàng trăm tỷ.
Comments
Post a Comment