Skip to main content

Chuyện tình của công chúa triều Trần: Quỳnh Trân công chúa (aka Thiên Thụy công chúa)


Bia đá bên gốc gạo 700 tuổi ghi lại sự tích đền Mõ và cuộc đời bà công chúa Quỳnh Trân - Ảnh: Nguyễn Thông)
Dư luận xã hội và văn chương đang lao xao về một cuốn sách vừa xuất bản và được trao giải, viết về viên tướng nổi tiếng thời nhà Trần, dũng tướng Trần Khánh Dư. Chuyện chả có gì đáng nói nếu như tác giả không dùng lối văn sex - dâm dục mô tả cuộc tình của tướng Dư với người yêu. Người đó là vị công chúa mà bài này nhắc tới: Quỳnh Trân công chúa.
Người đó là công chúa Trần Quỳnh Trân, con vua Trần Thánh Tông, chị ruột vua Trần Nhân Tông, còn có biệt danh là Thiên Thụy công chúa. Sử sách ít chép về bà mặc dù đây là nhân vật rất đặc biệt, có lẽ do ngại đụng chạm đến tầm vóc của nhà Trần.
Mỗi lần về quê, tôi đều ghé thăm đền Mõ (ở xã Ngũ Phúc, H.Kiến Thụy, Hải Phòng) nơi thờ bà công chúa Quỳnh Trân và nghe nhiều sự tích về bà.
Trần Quỳnh Trân (? – 1308) là con vua Trần Thánh Tông và cung phi Vũ Thị Ngọc Lan. Bà cũng là chị ruột của vua Trần Nhân Tông. Do được phong là Thiên Thụy công chúa nên sử chép về bà đều chép là Thiên Thụy. Bia đá dựng ở đền Mõ cả nghìn chữ còn kể lại khá chi tiết về cuộc đời bà. Xung quanh vị công chúa đặc biệt này cũng có nhiều chuyện truyền miệng từ đời này qua đời khác bởi chính sử thời phong kiến (thông giám) ngại biên chép lại những mặt “trái” không hay của triều đại, dù đó là một triều lừng lẫy, nổi danh như nhà Trần.
Chuyện kể rằng Quỳnh Trân xinh đẹp hiền dịu, rất được vua cha yêu quý. Bấy giờ Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư là một viên tướng kiêu dũng trí lược nổi danh trong triều. Năm 1257 khi quân Nguyên xâm lược Đại Việt lần thứ nhất, viên tướng trẻ Trần Khánh Dư đã lập mưu đánh bại một cánh quân của giặc, được vua Thánh Tông nhận làm Thiên tử nghĩa nam (con nuôi vua), phong làm Phiêu kỵ đại tướng quân, một chức tước mà đương thời, nếu không phải là hoàng tử thì không được phong. Là con nuôi vua, Nhân Huệ vương Khánh Dư thường tự do ra vào nơi cung cấm. Trước vẻ ung dung tự tại của vị tướng trẻ tài giỏi, Quỳnh Trân vô cùng ngưỡng mộ, rồi không biết từ lúc nào đôi trai tài gái sắc đó đã yêu nhau say đắm.
Song thật trớ trêu, Hưng Vũ vương Nghiễn, tức Trần Quốc Nghiễn - con trai Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn cũng say mê công chúa Quỳnh Trân. Hưng Đạo vương dù biết công chúa đã yêu Trần Khánh Dư nhưng vẫn lấy uy thế của mình cứ một mực dạm hỏi xin cưới Quỳnh Trân cho Hưng Vũ vương. Không dám từ chối một người đang là trụ cột triều đình như Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn, vua Trần Thánh Tông đành phải hứa gả. Sau thời gian lần khân không đồng ý, không thể cưỡng lệnh cha, Quỳnh Trân đành phải về với Hưng Vũ vương.
Tình cũ không rủ cũng theo. Không dứt được tình, sau đó Trần Khánh Dư và công chúa Quỳnh Trân vẫn gặp nhau, rồi chuyện tình lén lút của hai người bị phát giác. Sự kiện tày trời đồn khắp trong ngoài triều đình, cha con Hưng Đạo vương rất tức giận. Bấy giờ vua Nhân Tông đã lên nối ngôi cha, ngổn ngang trăm mối: sợ phật ý Hưng Đạo vương, nhưng lại thương chị gái (Quỳnh Trân), tiếc người tài (Khánh Dư), nên đức vua vờ ban lệnh cho đánh chết Khánh Dư nhưng ngầm dặn không được đánh chết, sau đó xuống chiếu đoạt hết quan tước, tịch thu tài sản của Khánh Dư không để lại một chút gì. Khánh Dư hiểu thân phận mình phải lui về Chí Linh là thái ấp của phụ thân ông, ngày ngày đội nón lá mặc áo ngắn đi bán than. Còn Quỳnh Trân bị cha con Hưng Đạo vương trả về sống tại cung riêng, không còn quan hệ gì với Trần Quốc Nghiễn nữa.
Năm 1282, quân Nguyên lăm le xâm lược Đại Việt lần thứ hai, vua Trần mở hội nghị Bình Than bàn kế chống giặc. Tại bến Bình Than, nhà vua Trần Nhân Tông bất chợt trông thấy Khánh Dư chèo chiếc thuyền lớn chở đầy than củi lướt qua. Đang cần tướng giỏi để cầm quân chống giặc, ngài mừng rỡ sai người dùng khinh thuyền đuổi theo triệu Khánh Dư đến, rồi cho theo xa giá về lại triều và phong ngay làm Phó đô tướng quân, quản lãnh một cánh quân mạnh chuẩn bị chặn giặc.
Về lại Thăng Long, Khánh Dư và Quỳnh Trân lại có cơ hội gặp nhau. Tình cũ chưa nguôi, họ lại quấn quýt không rời, đến nỗi chính sử phải chép: “Rút cuộc Khánh Dư cũng không sửa được lỗi lầm cũ”. Mối tình của hai người chắc hẳn phải ầm ĩ lắm nên sử mới chép kỹ đến như vậy.
Sau đó, do để giữ thể diện cho hoàng gia, vua Nhân Tông buộc lòng phải lệnh cho chị mình, công chúa Quỳnh Trân xuất gia. Không còn cách nào khác, đầu năm 1284, công chúa Quỳnh Trân giã từ lầu son gác tía kinh đô, đến với mảnh đất ven sông Văn Úc hoang sơ chọn một gò đất cao lập am tu hành.
Đền Mõ nổi tiếng linh thiêng ở xã Ngũ Phúc, huyện Kiến Thụy, nơi thờ bà công chúa Quỳnh Trân - Ảnh: Nguyễn Thông)
Tại nơi tu hành, bà lập điền trang trồng cấy lương thực, mở chợ cho dân buôn bán, quy tụ dân trong vùng đến làm ăn sinh sống, hình thành nên trang Nghi Dương (nay là xã Ngũ Phúc, H.Kiến Thụy, Hải Phòng). Cái am nhỏ dần được bà dựng thành chùa, đêm ngày bà chuyên tâm gõ mõ tụng kinh niệm Phật, dân quanh vùng quen với tiếng mõ của bà, từ đó gọi ngôi chùa với cái tên mộc mạc là chùa Mõ. Trong thời gian tu hành, bà thường cứu cấp chẩn bần, đem kiến thức của mình giáo hóa nhân dân, khuyến khích dân khai khẩn đất hoang, phát triển nông tang, lập thêm làng xóm. Có năm bị thiên tai mất mùa, bà xin vua miễn thuế cho năm xã trong vùng, dân rất nhớ ơn. Sau bà trở thành ni sư nổi tiếng, được tôn gọi là Thiền Đức đại ni.
Cuối năm 1284, quân Nguyên do Trấn nam vương Thoát Hoan chỉ huy tiến sang xâm lược nước ta. Năm 1285, tướng giặc là Ô Mã Nhi tiến đánh Vân Đồn, Vạn Kiếp, phòng tuyến bị phá vỡ. Trước thế giặc hung hãn, nhiều tôn thất nhà Trần và một số tướng soái đã hoảng sợ đầu hàng, vua tôi Trần Nhân Tông phải rút chạy vào Nghệ An. Thoát Hoan dồn binh lực đuổi theo. Trong tình thế vô cùng nguy cấp, triều đình buộc phải họp bàn tìm kế hoãn binh. Kế hoạch cử người sang gặp Thoát Hoan để cầu hòa được đa số tán đồng. Ngoài các lễ vật quý giá đưa sang làm quà tặng, triều đình quyết định chọn một công chúa có nhan sắc dâng cho Thoát Hoan để cầu thân. Người đầu tiên được triều đình bàn tới là công chúa Quỳnh Trân. Quỳnh Trân được đón về triều, song trước sự phản đối kiên quyết của bà, nhà vua đành để bà trở về am cũ (người bị thay bà là An Tư công chúa). Từ đó Quỳnh Trân một lòng quy Phật, mối tình với Khánh Dư bà mãi mãi chôn chặt trong lòng.
Theo sách Nam ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng, tháng 10.1308, bà ốm nặng, Thượng hoàng Nhân Tông bấy giờ là Trúc Lâm đại sĩ, đang tu trên núi Yên Tử hạ sơn đến thăm chị gái. Trước lúc ra về, ngài ngậm ngùi cầm tay bà nói: “Nếu chị đã đến ngày đến giờ thì cứ đi, Âm phủ có hỏi thì bảo rằng, xin đợi một chút, em tôi là Trúc Lâm đại sĩ sẽ tới ngay”. Về điều này, sách Nam ông mộng lục ghi cụ thể rằng: “Đại sĩ tại Tử Tiêu, văn tỉ bệnh cức, nãi hạ sơn vãng thị, vị Thiên Thụy viết "tỉ nhược thời chí, tự khứ, kiến minh gian vấn sự tắc ứng viết: nguyện thiếu đãi, ngã đệ Trúc Lâm đại sĩ thả chí". Ngôn bất hoàn sơn. Sổ nhật chí am, phân phó đệ tử hậu sự, yểm nhiên tọa hóa. Thiên Thụy diệc dĩ thị nhật tốt” (Đại sĩ ở Tử Tiêu, nghe tin chị hấp hối, bèn xuống núi lại thăm, nói với Thiên Thụy "nếu chị đến lúc rồi thì cứ đi, dưới âm phủ có hỏi chuyện thì nhớ trả lời: xin đợi một chút, em ta là Trúc Lâm đại sĩ sẽ đến". Nói xong về núi. Đi mấy ngày đến am, dặn dò đồ đệ hậu sự, bỗng nhiên ngài ngồi hóa. Thiên Thụy cũng ngày hôm đó qua đời).
Ngày mùng 3.11.1308 bà chúa Mõ mất. Quả nhiên, cùng ngày hôm đó Thượng hoàng Nhân Tông cũng băng hà. Nhân Tông là em ruột, lại là người chứng kiến cũng như xử lý toàn bộ chuyện tình ngang trái bi kịch của công chúa Quỳnh Trân nên đã rất hiểu và vô cùng thương người chị gái đa đoan của mình.
Sau khi bà viên tịch, dân trong vùng cảm công đức của bà đã lập đền thờ ngay tại nơi bà tu hành, tôn bà làm phúc thần, ngôi đền cũng được gọi bằng cái tên rất dân gian là đền Mõ.
Nguyễn Thông - Trần Kim Anh

Comments

Popular posts from this blog

GUSTAVE COURBET Danh họa Pháp có nét vẽ táo bạo bức phá cả nề nếp luân lý, không ngụy tạo.

*Xem thêm về những tác phẩm mang tính bức phá và táo bạo của  Gustave Courbet   *tranh minh họa và nguồn sưu tầm :    ViVi VÕ Hùng Kiệt Trong lãnh vực hội họa Tây phương, bức tranh  L’Origine du Monde (Cội Nguồn Nhân Gian)  của Gustave Courbet  có một chỗ đứng riêng biệt. Được vẽ vào năm 1866, bức họa chỉ được chính thức trưng bày trong viện bảo tàng vào năm 1995. Nội dung táo bạo có thể giải thích vì sao tác phẩm đã bị cất giấu trong hơn một thế kỷ, bởi vì bức tranh không vẽ gì khác ngoài bộ phận sinh dục của phụ nữ. *-“Tôi chưa từng nhìn thấy một thiên thần, và tôi không thể vẽ điều không thấy”. Sinh thời họa sĩ Gustave Courbet từng thốt lên như vậy, khi người ta lên án bức “Cội nguồn trần thế”  (L’origine du monde)  của ông là “điếm nhục” và đủ mọi ngôn từ mô tả sự đồi trụy khác. Điều này cũng dễ hiểu, bởi ông vẽ bức tranh này vào năm 1866 và hơn một thế kỷ sau, vào năm 1995, nó mới được chính thức trưng bày tại Viện Bảo tàng Ors...

“Cưỡi lên đầu nhân dân còn kinh khủng hơn địa chủ, tư sản…!?”

Dân Trí Bùi Hoàng Tám 29-05-2015 (Dân trí) – Đó là lời nhận xét của Thiếu tướng Nguyễn Xuân Tỷ, Phó Giám đốc Học viện Quốc phòng, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bến Tre tại phiên thảo luận về việc sửa đổi Bộ luật hình sự chiều 26-5 được báo Tuổi trẻ bài “Bỏ tử hình tội tham nhũng, dân không chịu đâu” dẫn lời. (Minh họa: Ngọc Diệp) Bác Tỷ nói nguyên văn như sau: “Làm cán bộ mấy năm mà trong nhà có vài ba trăm tỉ đồng, thậm chí cả ngàn tỉ đồng thì lấy ở đâu ra nếu không tham nhũng. Có một đội ngũ giàu rất nhanh, cưỡi lên đầu nhân dân, còn kinh khủng hơn địa chủ, tư sản ngày xưa”. Có lẽ đây là lời nhận xét thẳng thắn nhất, quyết liệt nhất của một chính khách về việc giàu lên nhanh chóng của “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, công chức thoái hóa, biến chất. Chỉ có mấy chữ biểu đạt về con số, ĐB Nguyễn Xuân Tỷ đã nói ra một điều tưởng như vô lý, đó là có hẳn một “đội ngũ” làm cán bộ có “mấy năm” mà trong nhà có “vài ba trăm tỉ” đồng, thậm chí cả “ngàn tỉ đồng” thì quả là khủng kh...

Cách làm nước chấm ngon

 Món ngon mà thiếu nước chấm chuẩn thì đúng là thật tệ. Hãy tự biết cách pha bát nước chấm ngon đúng điệu và làm nên linh hồn của món ăn. Bên cạnh thịt, tôm, cua, cá… thì tiết luộc cũng là một món ăn thơm ngon, bổ dưỡng mà nhiều gia đình thường chế biến trong mâm cơm hằng ngày của mình. Tuy nhiên, khi ăn tiết luộc, bạn phải chấm kèm với nước chấm riêng, nếu không thì món ăn sẽ rất nhạt nhẽo, vô vị và bạn sẽ không thể cảm nhận hết được sự ‘tinh túy’ của nó, cũng như là sự tinh tế trong ẩm thực Việt.  1. Cách làm nước chấm tiết luộc Nguyên liệu cần chuẩn bị: Nước mắm loại ngon Hạt tiêu: 1/4 thìa Mì chính: ¼ thìa Ớt: 1 – 2 quả Cách tiến hành: Bước 1: Có một điều đặc biệt cần lưu ý là bạn phải mua được một loại nước mắm thơm ngon, không quá mặn, màu sắc hài hòa, không quá đậm. Bởi nước mắm là thành phần quan trọng nhất quyết định đến độ ngon của nước chấm đấy nhé. Bước 2: Với ớt, bạn rửa sạch, rạch bỏ bớt hạt, bỏ cuống đi rồi thái lát thật nhỏ và mỏng chứ không c...