Mất lợi thế cạnh tranh ; yếu cả trình độ, kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ, lao động Việt chỉ có thể làm thuê trong nước.
Tiến sĩ Mạc Văn Tiến, Viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học dạy nghề (thuộc tổng cục Dạy nghề, Bộ Lao động thương binh và xã hội) cho biết, một trong những đặc tính đầu tiên khi tham gia hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN ngoài việc quy định về dòng vốn Việt Nam cần biết rằng sẽ có một sự dịch chuyển lao động có tay nghề cao giữa các nước trong khu vực.
Về mặt lý thuyết, nghĩa là lao động từ thị trường nước này hoàn toàn có thể được tự do đi lại, dịch chuyển sang nước khác. Đương nhiên, lao động Việt Nam cũng có thể sang Singgapore, Thái Lan hay Lào để làm việc và ngược lại.
Đừng trông chờ sự bảo hộ
Cũng giống nhận định của nhiều chuyên gia, ông Tiến cho rằng, sự dịch chuyển lao động này là tất yếu. Cần lưu ý là từ năm 2015, có 8 ngành nghề lao động trong các nước ASEAN được tự do di chuyển thông qua các thỏa thuận công nhận tay nghề tương đương, bao gồm kế toán, kiến trúc sư, nha sĩ, bác sĩ, kỹ sư, y tá, vận chuyển và nhân viên ngành du lịch. Ngoài ra, nhân lực chất lượng cao (các chuyên gia, thợ lành nghề)... được di chuyển tự do hơn.
Nguy cơ có thêm nhiều cử nhân thất nghiệp, thạc sĩ bán trà đá trong tương lai
Lao động kỹ năng thấp đang chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu lao động của Việt Nam lúc này không còn là lợi thế và dễ khiến Việt Nam thành xưởng gia công của thế giới nếu không sẽ phải đối diện với nạn thất nghiệp gia tăng chóng mặt.
Tức là sẽ có một sự cạnh tranh gay gắt giữa nguồn lao động trong nước và nguồn lao động nước ngoài. Đến khi đó, mất đi lợi thế giá rẻ, lao động Việt Nam lại yếu thế cạnh tranh so với các đối thủ trong nội khối về cả trình độ, kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ thì đến làm thuê cũng khó được tuyển dụng.
"Lao động của Việt Nam vẫn còn những điểm yếu và khoảng trống trong các kỹ năng chuyên môn liên quan đến công việc, các kỹ năng nhận thức như giải quyết vấn đề và tư duy phản biện, và các kỹ năng cốt lõi như làm việc theo nhóm và giao tiếp.
Nếu chất lượng và tính kỷ luật, tác phong không được cải thiện lao động trong nước sẽ đối mặt với nguy cơ tiếp tục làm gia công cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, cạnh tranh căng thẳng với lao động nước ngoài ở mọi vị trí, trong khi các việc làm có giá trị gia tăng cao ở trong nước rơi vào tay người nước ngoài", vị chuyên gia nói.
"Họ hoàn toàn có quyền được thuê những lao động nước ngoài có đủ trình độ, kỹ năng, chuyên môn đáp ứng được yêu cầu của họ như Lào, Thái Lan, hay Campuchia nếu lao động của họ tốt hơn Việt Nam". Ông Tiến nói, những lý do trên đã đủ để lao động Việt thua ngay trên sân nhà.
Đứng trước thách thức này, về phía nhà nước, vị chuyên gia cho rằng cần có những hàng rào kỹ thuật nhằm bảo vệ việc làm cho lao động trong nước. Tuy nhiên, đây chỉ được xem là biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng có được việc làm cho lao động trong nước chứ không phải bảo hộ cho người lao động. Ví dụ, thông qua các ký kết hợp đồng có thể yêu cầu doanh nghiệp FDI phải chuyển giao công nghệ thế nào ? Đưa ra những điều khoản giàng buộc doanh nghiệp nước ngoài phải sử dụng bao nhiêu phần trăm lao động địa phương ; tỉ lệ lao động chất lượng cao là bao nhiêu và lao động phổ thông là bao nhiêu... ? Đó là việc bắt buộc phải làm mà lẽ ra phải làm từ rất lâu rồi.
"Vấn đề chính là phải nâng cao được chất lượng lao động Việt chứ không phải câu chuyện nâng cao khả năng được lao động trong nước", ông Tiến nói.
'Vắt chân lên cổ mà chạy'
Nhận thức được thực tế này, ông Tiến cho biết hiện nhà nước và chính phủ đã có chủ trương đổi mới quyết liệt, đổi mới căn bản nhất là trong lĩnh vực giáo dục. Theo đó, có yêu cầu ngành giáo dục phải thay đổi toàn bộ chương trình đào tạo, không phải chạy theo bằng cấp nữa mà phải đào tạo kỹ năng, đào tạo theo yêu cầu và nhu cầu của doanh nghiệp.
Nói như vậy cũng có nghĩa là học viên, lao động không bắt buộc phải học nghề một cách cơ học, cứng nhắc kéo dài tới 2-3 năm nữa mà có thể chỉ kéo dài trong vài tháng tùy thuộc vào từng ngành nghề, từng lĩnh vực. Vấn đề cơ bản là đào tạo cho được kỹ năng, thực hành. Ví dụ, đào tạo lao động hàn xì thì phải biết làm thợ hàn, hoặc đào tạo lái xe phải biết lái xe chứ đào tạo xong mấy năm học lại không biết lái xe, không biết cầm que hàn thì thất nghiệp là chắc chắn.
Tuy nhiên, ông Tiến nhấn mạnh thay đổi không phải chỉ từ giáo dục mà cơ bản vẫn phải là tự thân của mỗi người lao động. Nhà nước chỉ giữ vai trò đào tạo kiến thức, kỹ năng nền, còn người lao động muốn tồn tại thì phải tự trau dồi, tích lũy từ thực tế.
"Về nguyên tắc, cơ hội làm việc sẽ không tăng nhiều nhưng số lượng lao động sẽ nhiều hơn. Trong bối cảnh cạnh tranh khắc nghiệt, người giỏi sẽ ở lại, người kém sẽ bị bật ra. Luật chơi đã định, ở đâu cũng vậy", vị chuyên gia cảnh báo.
Vị chuyên gia lưu ý, thời gian qua khá nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã tràn vào và thâu tóm hệ thống bán lẻ trong nước, vì thế cảnh báo lao động Việt sẽ thất nghiệp ngay trên sân nhà là điều đã được dự báo trước.
Từ góc độ chuyên gia, ông Tiến nhắn nhủ từng cá nhân phải tự trau dồi, nâng cao kỹ năng cho mình. Cả về kỹ năng cứng và kỹ năng mềm. Theo nhận định của ông Tiến ở Việt Nam kỹ năng mềm, hay còn gọi là kỹ năng sống của lao động vốn không được coi trọng, dẫn tới ý thức của người lao động không cao. Trong khi, ở các nước vấn đề ý thức, kỹ luật lao động rất được xem trọng và rất có nguyên tắc.
Bên cạnh đó, ông Tiến cũng chỉ ra một hạn chế nữa khiến doanh nghiệp và người lao động gặp khó là vấn đề tiếp cận thông tin, khó nắm bắt được yêu cầu của các doanh nghiệp tuyển dụng.
Cụ thể ông Tiến nói, cần phải coi nắm bắt thông tin như một chiến lược và đặt nó nằm trong tổng thể của chiến lược dạy nghề. Như vậy, có thể thấy vai trò của doanh nghiệp trong quá trình đào tạo nghề là rất quan trọng và không thể tách rời.
Trong luật doanh nghiệp mới, có quy định rất rõ doanh nghiệp se tham gia trực tiếp vào quá trình đào tạo lao động, tức là doanh nghiệp đặt ra yêu cầu và cơ sở đào tạo đào tạo theo yêu cầu của doanh nghiệp.
"Cần phải có sự gắn kết giữa doanh nghiệp với cơ sở đào tạo. Cơ sở đào tạo phải nắm bắt được cụ thể yêu cầu của doanh nghiệp : về số lượng, lĩnh vực, yêu cầu thế nào và mức lương bao nhiêu. Đây là trách nhiệm của bộ phận quan hệ doanh nghiệp trong mỗi cơ sở đào tạo", ông Tiến cho hay.
Vấn đề cần quan tâm là các doanh nghiệp và người lao động Việt Nam hầu như chưa sẵn sàng và chưa được chuẩn bị tốt để có thể tận dụng những cơ hội và đương đầu với những thách thức nảy sinh.
Theo khảo sát mới đây, của Bộ kế hoạch và Đầu tư cho thấy, 76% doanh nghiệp không biết gì về AEC, 94% không hiểu rõ nội dung cam kết trong AEC, 63% không hiểu về những cơ hội và thách thức trong AEC.
Một đề tài nghiên cứu cấp Nhà nước do Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện trong năm này, khảo sát gần 700 doanh nghiệp tại 5 thành phố lớn nhất nước là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ, cũng cho thấy có tới 60% doanh nghiệp không hiểu về AEC. Nghiên cứu này cũng đánh giá, nếu tính theo thang điểm 10, sự chuẩn bị của doanh nghiệp Việt Nam với cộng đồng này là dưới 5 điểm. Còn theo số liệu của Hội doanh nghiệp trẻ Hà Nội, có tới 80% doanh nghiệp nhỏ và vừa thờ ơ, không quan tâm, không biết việc gì đang đợi họ khi AEC sắp hình thành.
Trong bối cảnh chỉ còn nước "vắt chân lên cổ" mà chạy thì Tiến sĩ Mạc Văn Tiến thể hiện rõ lo ngại trước thực tế đáng sợ và đáng tiếc này.
An An
Nguồn : Đất Việt, 25/09/2015
Comments
Post a Comment